Chửa trứng là tình trạng thai nghén bất thường, trong đó một phần hay toàn bộ bánh rau bị thoái hóa thành các túi chứa dịch to, nhỏ, dính vào nhau thành từng chùm giống như chùm nho. Nếu không được phát hiện và can thiệp sớm sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm như mất máu, suy dinh dưỡng, băng huyết, ung thư tế bào nuôi,…
Thế nào là chửa trứng?
Bình thường, sau khi tinh trùng kết hợp với noãn sẽ trở thành trứng thụ tinh, phát triển thành thai nhi. Trong một số trường hợp, tế bào nuôi phát triển quá nhanh, tổ chức liên kết và các mao mạch của mạch máu rốn ở gai nhau không phát triển kịp. Gai nhau bị thoái hóa, phù nề tạo thành các túi chứa dịch dính vào nhau giống như chùm nho và chiếm phần lớn buồng tử cung, được gọi là thai trứng. Trứng có thể phát triển thành một khối không có phôi thai (được gọi là chửa trứng toàn phần) hoặc có phôi thai bất thường (chửa trứng bán phần). Một phần nhỏ gai rau bị thoái hóa, còn phần lớn gai rau không bị thoái hóa vẫn đủ để nuôi dưỡng thai, trong buồng tử cung có cả thai, bánh rau và một số túi trứng (chửa trứng kèm theo thai nhi).
Biểu hiện
Ban đầu, người bị chửa trứng cũng có biểu hiện mang thai bình thường. Tuy nhiên những người chửa trứng thường bị nghén rất nặng, nôn nhiều, ăn vào lại nôn, người gầy sút. Một số trường hợp còn bị phù và tăng huyết áp. Thai phụ bị ra máu âm đạo (hay xảy ra từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 16 của thai kỳ), máu đen hoặc đỏ, dai dẳng, ít một. Một triệu chứng điển hình nữa là tử cung của người chửa trứng to quá mức không tương xứng với tuổi thai. Nhiều người bệnh còn bị hồi hộp, run tay, vã mồ hôi do hormon thai nghén tăng cao,…
Biến chứng nguy hiểm
Trong quá trình tiến triển của chửa trứng dễ xuất hiện các biến chứng rất nguy hiểm như suy dinh dưỡng, mất máu, sảy thai trứng gây băng huyết hoặc thủng tử cung do thai trứng ăn sâu vào lớp cơ tử cung. Một biến chứng ác tính nguy hiểm nữa của chửa trứng là ung thư tế bào nuôi (chiếm khoảng 10% – 30% các ca chửa trứng). Ung thư tế bào nuôi thường xâm lấn sâu vào lớp cơ tử cung gây hoại tử chảy máu và di căn xa đến các phủ tạng khác của cơ thể, khiến điều trị rất khó khăn.
Do đó khi đã xác định chửa trứng cần phải nạo hút thai trứng càng sớm càng tốt. Riêng đối với những phụ nữ trên 40 tuổi, hoặc đã có đủ con không muốn có con nữa thì có thể áp dụng biện pháp cắt toàn bộ tử cung để làm giảm nguy cơ biến chứng thành ung thư tế bào nuôi. Sau khi nạo hút thai trứng thì bệnh nhân phải được theo dõi chặt chẽ và tuân thủ đúng chỉ định tái khám của bác sĩ. Trong thời gian theo dõi, bệnh nhân không được có thai, chỉ sau khoảng hai năm theo dõi mà không thấy có biến chứng gì thì mới nên có thai lại.
Theo suckhoedoisong