Bánh rau được hình thành từ rất sớm cùng với sự phát triển của thai nhi. Nó giống như một đĩa có đường kính khoảng 20-25 cm, dày khoảng 2,5-3 cm, mỏng dần về phía bìa và có cân nặng khoảng 500-600 g. Hệ thống mạch máu của bánh rau được tập trung thành hai động mạch và một tĩnh mạch rốn nối liền với thai nhi, được gọi là dây rau hay dây rốn, có chiều dài 35-60 cm.
Tình trạng rau bám thấp trong tử cung có thể dẫn đến băng huyết khi sinh, gây nguy hiểm đến tính mạng của sản phụ và thai nhi. Vì vậy cần được chẩn đoán sớm để có phương án xử lý để đảm bảo tính mạng cho mẹ và bé.
Chẩn đoán
– Trong ba tháng cuối
+ Cơ năng :
Chảy máu là triệu chứng chính với tính chất đặc biệt đột ngột, không đau bụng, máu đỏ loãng, có máu cục. Không cần điều trị tự cầm có tính chất tái diễn.
+ Toàn thân bệnh nhân phụ thuộc vào lượng máu mất nhẹ
+ Thực thể :
•Thường ngôi bất thường đầu cao lỏng ngôi ngang hoặc ngôi ngược.
• Nếu ra máu nhiều tim thai có biểu hiện suy.
• Thăm âm đạo thấy ngôi cao qua cổ tử cung có thể sờ được bánh rau
• Siêu âm: là phương pháp chẩn đoán chính xác nhất và vô hại.
• Tiến triển
Thường máu tự cầm đôi khi máu chảy nhiều mang tính tái phát không ảnh hưởng tới toàn thân. Có tới 75 % đẻ non dưới 8 tháng hiếm thấy các trường hợp ra máu ba tháng cuối giữ được đến đủ tháng trường hợp hay gặp vỡ ối non, nhiễm khuẩn ối.
– Khi chuyển dạ
+ Cơ năng :
Máu chảy đổ tươi nhiều hay gặp trong rau tiền đạo trung tâm hoàn toàn các loại khác chảy ít hơn
+ Toàn thân :
Thể trạng chung tuỳ thuộc vào lượng máu mất nếu mất máu nhiều da xanh niêm mạc nhợt, mạch nhanh, huyết áp tụt có khi truỵ tim mạch.
+ Thực thể
• Sờ nắn thấy ngôi ở rất cao hoặc ngôi bất thường
• Nghe tim thai có thể không rõ
• Thăm âm đạo khi chuyển dạ là phương pháp lâm sàng chính xác nhất để xác định các thể rau tiền đạo và hướng xử trí thích hợp. Nếu chảy máy nhiều nhanh chóng mổ lấy thai để an toàn cho cả mẹ và con .Nếu chảy máu ít theo dõi sát để đẻ thường.
– Cận lâm sàng
Có nhiều phương pháp để chẩn đoán
+ Siêu âm :
Ngày nay siêu âm là phương tiện sử dụng nhiều nhất có thể xác định vị trí chính xác của bánh rau còn xác định được nhịp tim thai
+ Chụp X quang không chuẩn bị để xác định vị trí của bánh rau nằm vị trí đoạn dưới tử cung. Ngoài ra có phương pháp bơm thuốc cản quang vào động mạch đùi để tìm vị trí bám của bánh rau tuy nhiên ít làm vì nguy hiểm cho thai nhi.
+ Dùng đồng vị phóng xạ ( I 125 , I 131. I 132 …) Xác định vị trí bánh rau
Chẩn đoán phân biệt
– Rau bong non
Thường có hội chứng tiền sản giật – sản giật. Máu âm đạo đen loãng, không đông, sản phụ đau bụng nhiều, tử cung co cứng, thai suy nhanh chóng.
– Vỡ tử cung
Thường có dấu hiệu doạ vỡ, thai suy hoặc chết, sản phụ choáng nặng, có dấu hiệu xuất huyết nội.
– Các nguyên nhân khác
Một số nguyên nhân chảy máu từ cổ tử cung (viêm lộ tuyến, polyp, ung thư…), chảy máu âm đạo. Trong khi chuyển dạ chẩn đoán phân biệt với đứt mạch máu của dây rau, máu chảy ra đỏ tươi, thai suy rất nhanh.
Các phương pháp điều trị
– Khi thai chưa được 32 tuần
Điều trị nội khoa :
– Bất động
– Thuốc giảm co bóp tử cung như Spasmaverin, Salbutamol, Magné Sulfate.
– Các thuốc cầm máu, các thuốc bổ thai theo dỗi cho đến khi thai đủ tháng nếu ra máu nhiều khó giữ thai cần phải cấp cứu mẹ, bấm ối (trừ loaị trung tâm) cầm máu và gây chuyển dạ
– Khi thai đủ 32 tuần
Thai có thể sống độc lập ngoài tử cung nếu chảy máu tái diễn nhiều lần tốt nhất mổ lấy thai không nên chờ đơi đến chuyển dạ
Khi chuyển dạ
– Rau tiền đạo không trung tâm
+ Đa số các trường hợp này có thể đẻ thường. Khi chuyển dạ nên bấm ối để hạn chế chảy máu. Nếu sau bấm ối máu vẫn tiếp tục chảy nên mổ lấy thai.
+ Khi có quyết định cho đẻ thường cần phải theo dõi sát toàn trạng và các dấu hiệu sinh tồn của sản phụ, số lượng máu mất và tình trạng thai. Nếu toàn trạng mẹ xấu đi do mất máu nhiều, hoặc phát sinh thêm các yếu tố nguy cư khác thì phải mổ lấy thai cấp cứu.
+ Sau khi thai sổ, bánh rau thường bong sớm vì một phần đã bị bong trước sinh. Chỗ rau bám có thể chảy máu, cần dùng các thuốc co hồi tử cung. Nếu không kết quả phải cắt tử cung bán phần thấp.
– Rau tiền đạo trung tâm
+ Chỉ định mổ lấy thai tuyệt đối. Trường hợp chảy máu nhiều không kiểm soát được thì có thể buộc động mạch tử cung hoặc động mạch hạ vị để cầm máu. Nếu không có kết quả thì phải cắt tử cung bán phần thấp để cầm máu.
Thời kỳ hậu sản
Về phía mẹ
– Theo dõi sát để đề phòng chảy máu thứ phát sau sinh và nhiễm khuẩn.
– Trong thời kỳ hậu sản nếu mẹ thiếu máu nhiều phải truyền máu để bù lại số lượng máu đã mất và uống thêm viên sắt.
Về phía thai
– Trẻ sơ sinh cần được chăm sóc đặc biệt vì phần lớn là trẻ non tháng do mẹ mất máu mãn tính nên thai nhi thiếu oxy từ trong bụng mẹ thai dễ suy và dễ tử vong do non tháng và do chảy máu.
Theo Benh